Điểm đầu tiên trong “kế hoạch chiến thắng” của Ukraine là Kiev đề xuất được Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) mời gia nhập liên minh. Tuy nhiên, liệu NATO có sẵng sàng kết nạp Ukraine?

Phản ứng trước “Kế hoạch chiến thắng” do Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenksy trình bày ngày 16/10, NATO đã chứng tỏ rằng tổ chức này không có dấu hiệu sẵn sàng mời Ukraine gia nhập khối. Tổng Thư ký NATO Mark Rutte đánh giá “Kế hoạch chiến thắng” của Kiev là tín hiệu tốt, nhưng ông không thể ủng hộ toàn bộ kế hoạch này ở thời điểm hiện tại. Ông nói: “Tất nhiên, đây là tín hiệu mạnh mẽ từ (Tổng thống) Zelensky và đội ngũ của ông khi họ xây dựng nên kế hoạch này… Nhưng không có nghĩa là tôi có thể tuyên bố ủng hộ toàn bộ kế hoạch, hành động đó sẽ gặp đôi chút khó khăn vì có nhiều vấn đề mà chúng tôi phải hiểu rõ hơn”.
Ngoài ra, ông Mark Rutte còn cho biết các quốc gia thành viên NATO đang “vững bước trên con đường” thực hiện cam kết viện trợ quân sự 40 tỷ euro (43,53 tỷ USD) cho Ukraine trong năm nay. Tổng Thư ký NATO nêu rõ: “Tôi rất vui khi thông báo chúng tôi đang vững bước trên con đường thực hiện cam kết 40 tỷ euro cho năm nay.
Theo nhà bình luận Marek Hudema của CH Séc, tư cách thành viên NATO sẽ không giúp chấm dứt cuộc chiến tại Ukraine, mà thậm chí có thể gây ra cuộc chiến lớn hơn, lôi kéo một số hoặc tất cả các quốc gia thành viên của khối quân sự này tham gia. Theo nhà bình luận Hudema, Nga vẫn đang đạt được đà tiến chậm nhưng chắc chắn trên chiến trường Ukraine. Cả Ukraine và phương Tây đều mệt mỏi vì chiến tranh nên có quan điểm ngày càng mạnh mẽ rằng Kiev nên có những mục tiêu chiến tranh thực tế và ký kết thoả thuận đình chiến với Nga. Dẫn chứng lịch sử trường hợp của nước Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, có ý kiến cho rằng tư cách thành viên NATO của Ukraine sẽ là sự đảm bảo để lệnh ngừng bắn có hiệu lực lâu dài.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện tại, phương án này được cho là không có tác dụng đối với Ukraine. Cục diện tại châu Âu hiện nay đã hoàn toàn khác so với thời kỳ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai hoặc những năm 1950, khi mà phương Tây có thể ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô và giữ một nửa nước Đức ngoài tầm kiểm soát của Moskva. Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của Joseph Stalin, đã cố gắng khôi phục đế chế Nga. Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên Xô đã chiếm vùng Baltic, Bessarabia và một phần Phần Lan, sau đó là Transcarpathian Rus – một phần của Ba Lan và quần đảo Kuril của Nhật Bản sau chiến tranh. Áp lực của Liên Xô sau đó vẫn tiếp tục, thậm chí vượt ra ngoài biên giới của đế chế cũ khi cố gắng giành được một phần Iran, thúc đẩy quyền kiểm soát các eo biển Bosphorus và Dardanelles, muốn tham gia quản lý Libya với tư cách là thuộc địa lấy từ nước Italy bại trận.
Theo nhà bình luận Hudema, nước Nga ngày nay đang lặp lại điều gì đó tương tự. Với cuộc chiến ở Ukraine, Moskva đang cố gắng tiếp quản những gì mà theo Tổng thống Nga Vladimir Putin, luôn thuộc thế giới của Nga, bao gồm Ukraine và Belarus. Nga kiểm soát hiệu quả Belarus thông qua các hiệp ước và nhờ quân đội đồn trú, trong khi đang đạt được tiến bộ về quân sự tại Ukraine. Tuy nhiên, giành lại Ukraine không phải là mục tiêu cuối cùng của Tổng thống Putin. Hãy nhớ rằng ông Putin đã gọi sự sụp đổ của Liên Xô là thảm họa địa chính trị tồi tệ nhất thế kỷ XX. Xem xét các dự thảo hiệp ước mà Nga yêu cầu ký kết với NATO và Mỹ vào mùa Đông năm 2021, chỉ vài tháng trước cuộc xâm lược Ukraine, điều Tổng thống Putin muốn là lấy lại ảnh hưởng ở toàn bộ Đông Âu.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, áp lực mà Stalin và những người kế nhiệm ông tạo ra đối với phương Tây đã thúc đẩy sự hợp tác của các nước không theo Liên Xô và sự hình thành của NATO với kết quả một nước Đức bại trận (Tây Đức) gia nhập liên minh quân sự vào năm 1955. Những đảm bảo an ninh của NATO khi đó không áp dụng cho Đông Đức, vốn nằm dưới sự quản lý của Liên Xô.
Một kịch bản tương tự không thể xảy ra với Ukraine ngày nay. Không thể đưa Kiev vào NATO và để một phần lãnh thổ Ukraine dưới sự chiếm đóng của Nga, với thực tế là các đảm bảo an ninh của phương Tây không áp dụng cho phần lãnh thổ đó. An ninh của Ukraine thậm chí không thể được đảm bảo thông qua bất kỳ hiệp ước nào về hỗ trợ quân sự và phòng thủ chung mà không áp dụng cho miền Đông nước này. Lý do là sự khác biệt về bối cảnh. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên Xô bị suy kiệt một cách thảm khốc: mất đi hàng triệu dân, một phần đáng kể đất nước bị tàn phá. Stalin biết mình không thể chịu đựng thêm chiến tranh nên khi gặp phải sự kháng cự, ông đã rút lui. Người kế nhiệm ông là Nikita Khrushchev cũng hành xử tương tự. Tuy nhiên, nước Nga hiện nay đã khác, và có tham vọng thành công trong cuộc chiến tại Ukraine. Nền kinh tế Nga đang suy thoái, chi tiêu cho chiến tranh rất lớn nhưng không thể so sánh với nền kinh tế kiệt quệ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Hoàn cảnh của phương Tây cũng khác so với thời kỳ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Phương Tây hiện lo sợ đối đầu với một nước Nga hạt nhân, nhưng mặt khác lại không sợ bị Moskva đánh bại về mặt quân sự. Còn sau năm 1945, phương Tây sợ rằng sẽ bị Liên Xô có lực lượng lục quân mạnh hơn đè bẹp. Sau đó việc Liên Xô đạt được thành tựu trong phát triển máy bay ném bom hạt nhân và tên lửa đã giúp nước này có lợi thế hơn so với Mỹ và phương Tây. Điều này dẫn đến sự miễn cưỡng của phương Tây trong việc can thiệp vào phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Giờ đây, những lo ngại như vậy không tạo ra áp lực phải duy trì nguyên trạng.
Nhà bình luận Hudema đánh giá bối cảnh hiện tại không có sự cân bằng giữa các mối đe dọa và tình trạng cạn kiệt đến mức có thể tạo ra sự phân chia ổn định mới giữa Đông và Tây ở Ukraine. Theo đó, những người nhận thức được điều này đã từ chối kết nạp Ukraine vào NATO, đồng thời bác bỏ các thỏa thuận an ninh có thể có giữa các nước phương Tây và Ukraine, vốn sẽ buộc các nước NATO phải tham chiến với Nga trong trường hợp quân đội nước này vượt qua chiến tuyến hiện tại./.
Tổng hợp
Aufrufe: 177